Trang chủTin TứcPhân tíchXu hướng đối...

Xu hướng đối đầu địa chính trị trên toàn cầu gia tăng

Kể từ tháng 6, nhịp độ cạnh tranh địa chính trị toàn cầu đã tăng lên rõ rệt. Nếu xu hướng này tiếp tục duy trì, khả năng thế giới phải đối mặt với những biến động lớn sẽ tăng lên đáng kể.

Ukraine có thể tấn công cầu Crimea trước cuộc bầu cử Mỹ

Ở châu Âu, cường độ đối đầu trong cuộc chiến Nga-Ukraine đã tăng rõ rệt. Các nước phương Tây đã nới lỏng hạn chế cho Ukraine sử dụng vũ khí phương Tây để tấn công lãnh thổ Nga. Để cổ vũ Ukraine, phương Tây đã sử dụng lợi nhuận từ tài sản bị đóng băng của Nga làm tài sản thế chấp, cung cấp cho Ukraine khoản vay trị giá 50 tỷ USD; Liên minh châu Âu cũng đã chính thức khởi động đàm phán về việc Ukraine gia nhập EU, khuyến khích Ukraine tiếp tục chiến đấu. Bước tiếp theo, Đức có thể sẽ cung cấp cho Ukraine tên lửa “Taurus”, một loại tên lửa được thiết kế đặc biệt để tấn công các công trình. Trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, Ukraine có thể đánh bom cầu Crimea để làm tăng nhiệt độ dư luận về Nga-Ukraine, hỗ trợ cho chiến dịch tranh cử của Biden.

Không chỉ vậy, trong “Tuyên bố chung G7”, các quốc gia phương Tây đã đe dọa Trung Quốc không được cung cấp vật tư quân sự và dân sự cho Nga, nếu không “G7” sẽ trừng phạt các thực thể và ngân hàng của Trung Quốc. Ngoài ra, các nước G7 cũng ủng hộ Đài Loan gia nhập Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các tổ chức quốc tế khác, tiến hành “chia nhỏ” chủ quyền của Trung Quốc. Trong bối cảnh châu Âu chuyển sang cánh hữu, EU có thể sẽ áp thuế đối với Trung Quốc trong các lĩnh vực như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, pin lithium và thép trong tương lai.

Kể từ năm ngoái, Trung Quốc và Philippines đã nhiều lần nổ ra xung đột trên biển.

Gần đây, Trung Quốc và Philippines lại xảy ra xung đột ở khu vực bãi cạn Ren’ai ở Biển Đông. Khác với những lần trước, lần này hai bên đã xảy ra va chạm, dẫn đến một binh sĩ Philippines bị thương trong cuộc xung đột. Kể từ năm ngoái, Philippines đã nhiều lần đối đầu với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, đằng sau đó không thể không nhắc đến vai trò của Mỹ trong việc “thổi lửa” sau lưng. Lý do tại sao Mỹ thôi phồng các vấn đề Biển Đông chủ yếu nhằm kích động, chia rẽ mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Bởi vì Malaysia, Việt Nam, Indonesia và một số nước khác cũng có tranh chấp đảo với Trung Quốc, nên nếu xảy ra đối đầu quân sự thực sự giữa Trung Quốc và Philippines, do lo ngại về sức mạnh của Trung Quốc, nhiều quốc gia Đông Nam Á có thể sẽ nghiêng về phía phương Tây và tìm kiếm sự bảo vệ an ninh từ Mỹ.

Cuộc đối đầu quân sự giữa Israel và Lebanon

Sau hơn một tháng mở chiến dịch, Israel đã đánh bại một nửa lực lượng Hamas đóng ở khu vực Rafah. Để trì hoãn nhịp độ chiến tranh của Israel, với sự hỗ trợ của Iran, Hezbollah ở Lebanon đã phát động cuộc tấn công bằng tên lửa quy mô lớn vào các thị trấn phía bắc Israel. Để trả đũa, không quân Israel đã tiến hành không kích vào Lebanon, gây thương vong cho dân thường của cả hai bên. Sau cuộc khủng hoảng Biển Đỏ, xung đột ủy nhiệm giữa Iran và Israel đã bước vào vòng leo thang thứ hai.

Hezbollah ở Lebanon sở hữu lực lượng vũ trang lên đến 70.000 người, mạnh gấp 3-5 lần Hamas. Hơn nữa, Hezbollah còn được trang bị 300.000 quả tên lửa, đủ để làm quá tải hệ thống phòng không “vòm sắt” của Israel. Israel đã gặp khó khăn khi đối phó với Hamas, nếu muốn đánh bại Hezbollah, ít nhất phải tiêu tốn 60 tỷ USD chi phí quân sự, chiếm một nửa thu nhập hàng năm của quốc gia này. Số tiền này Israel không thể tự chi trả mà phải dựa vào sự viện trợ của Mỹ. Tuy nhiên, hiện tại chính phủ của Biden đang đối mặt với áp lực bầu cử và có thái độ phản đối việc Israel mở ra mặt trận thứ hai.

Iran thông qua cuộc khủng hoảng Biển Đỏ và xung đột Lebanon-Israel thực hiện mục đích “Vây Ngụy cứu Triệu “.

Là người đứng sau hậu trường, Iran mặc dù kinh tế lạc hậu nhưng lại có hệ thống công nghiệp quân sự tương đối hoàn chỉnh, có thể sản xuất vũ khí đạn dược liên tục. Trong bối cảnh thiếu sự hỗ trợ từ Mỹ, Israel không có lợi thế khi đối đầu với Iran trong cuộc chiến ủy nhiệm. Là một quốc gia có thu nhập cao, giới trẻ Israel không mặn mà với nghĩa vụ quân sự. Kể từ khi chiến tranh Gaza bắt đầu, chính quyền Netanyahu đã huy động 300.000 quân dự bị, phần lớn trong số đó là tầng lớp trung lưu. Hơn nữa, do các cửa khẩu biên giới giữa Israel và Palestine bị phong tỏa, lực lượng lao động Palestine không thể vào thị trường lao động Israel, dẫn đến vấn đề thiếu hụt lao động ở Israel. Nếu Israel và Hezbollah ở Lebanon nổ ra chiến tranh kéo dài, vốn đầu tư nước ngoài chắc chắn sẽ tiếp tục rút khỏi Israel, và nền kinh tế Israel có thể sẽ tụt hậu ít nhất 5 năm.

Để giải quyết vấn đề thiếu nguồn nhân lực, Tòa án Tối cao Israel đã phán quyết rằng người Do Thái “chính thống” phải tham gia nghĩa vụ quân sự. Người Do Thái chính thống chiếm 10% tổng dân số Israel, và vì lý do lịch sử, họ đã được miễn nghĩa vụ quân sự. Quyết định của Tòa án Tối cao Israel đã làm gia tăng mâu thuẫn nội bộ. Do không có hiến pháp chính thức, ranh giới quyền lực giữa quốc hội và Tòa án Tối cao Israel không rõ ràng. Quốc hội lâu nay bị phe cánh hữu kiểm soát, trong khi Tòa án Tối cao lại do phe cánh tả kiểm soát, hai bên gần như không thể hòa hợp. Năm ngoái, quốc hội Israel đã thông qua dự luật cải cách tư pháp theo “nguyên tắc đa số đơn giản”, gây ra sự phẫn nộ mạnh mẽ từ cử tri cánh tả, dẫn đến các cuộc biểu tình trên đường phố. Để đàn áp người biểu tình, chính quyền Netanyahu đã thành lập “Lực lượng Cảnh sát Quốc gia”, điều này đã gây ra rạn nứt giữa chính phủ Israel và lực lượng quốc phòng, tạo cơ hội cho Iran và Hamas.

Hầu hết cử tri Israel ủng hộ việc tiêu diệt Hamas bằng vũ lực.

Khi cuộc chiến ở Rafah bước vào giai đoạn kết thúc, nội bộ Israel đang rơi vào tình trạng chia rẽ. Phe ôn hòa chủ trương giải cứu tất cả con tin thông qua đàm phán, được sự ủng hộ của Đảng Dân chủ Mỹ; trong khi phe cứng rắn muốn tiêu diệt hoàn toàn Hamas và được Đảng Cộng hòa Mỹ ủng hộ. Quyết định của Tòa án Tối cao đã làm gia tăng mâu thuẫn trong liên minh cầm quyền (phe cứng rắn), khi đảng cực hữu đại diện cho lợi ích của người Do Thái chính thống phản đối quyết định này một cách mạnh mẽ, còn đảng Likud đại diện cho người Do Thái thế tục lại giữ thái độ trung lập, vì việc mở rộng nguồn nhân lực phục vụ quân đội phù hợp với lợi ích dài hạn của Israel. Nếu hai bên không thể đạt được thỏa hiệp về vấn đề này, chính quyền của Netanyahu có nguy cơ bị lật đổ, và Israel có thể sẽ tổ chức bầu cử sớm.

Vấn đề Iran

Sau vụ tai nạn máy bay của Tổng thống, Iran đã tổ chức cuộc bầu cử tổng thống mới. Trong vòng bầu cử thứ hai, ứng viên cải cách Pezeshkian đã giành được hơn một nửa số phiếu, trở thành tổng thống mới. Nếu phe cứng rắn của Iran nhận được sự ủng hộ từ các lực lượng tôn giáo, thì phe cải cách lại nhận được sự ủng hộ từ người dân. Sau khi lên nắm quyền, Pezeshkian có thể sẽ tiếp tục một phần đường lối “hòa hoãn với Mỹ” của thời kỳ Rouhani, mở lại các cuộc đàm phán về thỏa thuận hạt nhân với phương Tây, và bãi bỏ quy định bắt buộc đeo khăn trùm đầu, tăng quyền tự trị cho các dân tộc thiểu số.

Ở một mức độ nào đó, việc phe cải cách lên nắm quyền có thể là sự thỏa hiệp của lãnh tụ tôn giáo tối cao Khamenei. Xét cho cùng, Khamenei kiểm soát Hội đồng Giám hộ Hiến pháp, và nếu muốn, ông hoàn toàn có thể thay thế toàn bộ danh sách ứng viên bằng những người thuộc phe cứng rắn. Do bị Mỹ phong tỏa lâu dài, cùng với việc tiêu tốn nhiều tài nguyên trong cuộc chiến ủy nhiệm với Israel, kinh tế và đời sống của Iran đang gặp vấn đề nghiêm trọng, và người dân kêu gọi cải cách rất mạnh mẽ. Việc bầu chọn một tổng thống thuộc phe cải cách có thể giúp giảm bớt mâu thuẫn xã hội. Mặt khác, trong bối cảnh bất ổn toàn cầu, tình hình kinh tế Iran trong vài năm tới khó có triển vọng khởi sắc, và việc chọn một tổng thống cải cách lên nắm quyền vào thời điểm này có thể giúp đổ lỗi cho sự suy thoái kinh tế.

Vấn đề lớn nhất của Iran hiện nay là lãnh tụ tối cao Khamenei đã cao tuổi và có thể qua đời bất cứ lúc nào. Mặc dù Khamenei có ý định chuyển giao quyền lực cho con trai mình, biến Iran từ chế độ bầu cử thành chế độ cha truyền con nối, nhưng động thái này đã gặp sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều phía. Xét theo tỷ lệ bỏ phiếu, hơn một nửa người dân Iran không chấp nhận chế độ hiện hành. Mặc dù phe bảo thủ kiểm soát Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran, phe đối lập lại nhận được sự đồng tình từ quân đội quốc gia. Nếu Iran không thể chuyển giao quyền lực một cách suôn sẻ sau thời kỳ của Khamenei, chắc chắn sẽ dẫn đến những xung đột đẫm máu.

Cuộc bầu cử Hoa Kỳ

Cuộc tranh luận của các ứng viên tổng thống Mỹ vào cuối tháng 6 đã diễn ra với những điểm đáng chú ý. Mặc dù những phát ngôn dân túy của Trump gây phản cảm, nhưng tình trạng sức khỏe của Biden lại là mối lo ngại lớn hơn đối với cử tri. Điều kỳ lạ là các phương tiện truyền thông cánh tả vốn dĩ ủng hộ Đảng Dân chủ, như CNN, NYT, WSJ, đều đồng loạt chỉ trích Biden, giảm mạnh tỷ lệ ủng hộ của ông và yêu cầu ông rút lui. Ngay cả Chris Wallace, người dẫn chương trình đã ủng hộ Biden cách đây 4 năm, cũng ám chỉ rằng Biden nên từ chức. Tại sao lại như vậy?

Tỷ lệ ủng hộ của Biden và Trump trong các cuộc thăm dò ý kiến

Trên thực tế, mặc dù không rõ ràng, Biden vẫn nghiêm túc trả lời tất cả các câu hỏi của người dẫn chương trình và không có lỗi logic nghiêm trọng nào. Lý do các phương tiện truyền thông cánh tả chỉ trích Biden chủ yếu là do cách xử lý vấn đề Israel-Palestine của chính quyền Biden đã làm mất lòng lực lượng Do Thái ở Mỹ. Từ đầu năm đến nay, các phong trào sinh viên ủng hộ Palestine đã bùng nổ ở các trường đại học Mỹ, và hàng triệu cử tri Hồi giáo sống ở các bang cạnh tranh cũng phản đối chính sách thiên vị Israel của Nhà Trắng. Vì lý do bầu cử, Biden đã tạm thời ngừng cung cấp vũ khí đạn dược cho Israel và giữ lại một lô hàng quân sự bom hạng nặng. Lý do mà Mỹ đưa ra là bom hàng không hạng nặng sẽ được sử dụng để phá hủy các tòa nhà dân cư, gây thương vong lớn cho dân thường. Do thiếu sự hỗ trợ của bom hàng không hạng nặng, quân đội Israel đã gặp nhiều khó khăn khi tấn công Rafah, đôi khi buộc phải chiến đấu trên đường phố với Hamas.

Mặc dù các biện pháp giữ lại vũ khí của Israel của Biden tuy đã xoa dịu các cử tri tiến bộ, nhưng lại gây ra sự bất mãn mạnh mẽ từ lực lượng Do Thái ở Mỹ. Thực tế, số lượng người Do Thái ở Mỹ còn nhiều hơn ở Israel, và họ rất quan tâm đến lợi ích của quê hương. Sau Thế chiến II, ở Mỹ hình thành hai nhóm lợi ích lớn: một là tập đoàn Do Thái, chủ yếu kiểm soát tài chính và truyền thông; hai là WASP (White Anglo-Saxon Protestants), tức là giới tinh hoa Anglo-Saxon theo đạo Tin Lành, chủ yếu kiểm soát công nghiệp và năng lượng. Trong vài thập kỷ qua, tập đoàn Do Thái là nhà tài trợ lớn nhất của Đảng Dân chủ, còn WASP là nhà tài trợ lớn nhất của Đảng Cộng hòa, và hai bên thay phiên nhau nắm quyền khi đảng của họ lên nắm quyền. Tập đoàn Do Thái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Phố Wall, đến mức nhiều chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đều là người Do Thái (như Paul Volcker, Alan Greenspan, Ben Bernanke, và Janet Yellen). Để tránh trở thành đối tượng bị thù ghét vì giàu có, tập đoàn Do Thái đã mua lại nhiều phương tiện truyền thông chủ lưu để tuyên truyền những quan điểm có lợi cho người Do Thái và kiềm chế tư tưởng phân biệt chủng tộc ở Mỹ.

Giám đốc điều hành người Do Thái của CNN

Giống như CNN, Wall Street Journal, New York Times, Washington Post và các phương tiện truyền thông chính thống khác, đã từ lâu bị kiểm soát bởi các tập đoàn Do Thái, do đó họ thường xuyên đăng tải các quan điểm cánh tả. Chính vì vậy, những phương tiện truyền thông này đã tích cực hạ thấp uy tín của Biden, và một số nhà tài trợ Do Thái đã đe dọa rút vốn, cố gắng tạo ra một hiệu ứng “ép buộc”, buộc Đảng Dân chủ phải thay đổi ứng viên. Điều này đặt giới lãnh đạo Đảng Dân chủ vào tình thế khó khăn: nếu thay người vào phút cuối, họ sẽ không thể tập hợp đủ số phiếu trong thời gian ngắn, và Đảng Dân chủ có khả năng cao sẽ thua trong cuộc bầu cử. Nếu không thay người, Đảng Dân chủ sẽ mất nguồn tài trợ quan trọng nhất cho chiến dịch tranh cử.

Đối với Biden, nếu ông muốn tiếp tục tranh cử, ông phải lựa chọn giữa việc làm hài lòng cử tri tiến bộ và thu hút sự ủng hộ của các tập đoàn Do Thái. Nếu làm mất lòng cử tri tiến bộ, Biden sẽ thua trong cuộc bầu cử; nếu làm mất lòng các tập đoàn Do Thái, Biden sẽ mất tư cách được tranh cử.

Mặt khác, trong vài tháng qua, Trump đã thay đổi hình ảnh cứng rắn trước đây, chủ động cải thiện quan hệ với các lãnh đạo truyền thống của Đảng Cộng hòa, nhằm thu hút sự ủng hộ của cử tri ôn hòa, khiến khả năng Trump đắc cử có xu hướng tăng lên.

Trump tấn công chính sách Palestine-Israel của Biden :

Trên thực tế, đòn tấn công chí mạng nhất của Trump đối với Biden trong cuộc đối đầu là mô tả Biden “trở nên giống như một người Palestine”. Đối với Mỹ, nơi bị ảnh hưởng rất mạnh bởi lực lượng Do Thái, câu nói này chẳng khác nào một quả bom nguyên tử. Không chỉ vậy, chính quyền Biden cố gắng thúc đẩy giải pháp “hai quốc gia” đối với Palestine cũng chạm đến giới hạn chịu đựng của các tập đoàn Do Thái. Trong tương lai, nếu Biden muốn tiếp tục tranh cử, ông cần nhượng bộ trong vấn đề Israel-Palestine, chẳng hạn như nới lỏng cung cấp đạn dược cho Israel. Tuy nhiên, động thái này có thể khiến Israel trở nên không kiềm chế, thậm chí có thể phát động chiến tranh toàn diện với Hezbollah ở Lebanon, dẫn đến việc Mỹ sẽ bị cuốn sâu hơn vào các vấn đề ở Trung Đông và tiếp tục làm suy yếu sự ủng hộ của cử tri cánh tả đối với Biden.

Hiệp ước Nga – Triều Tiên

Sự kiện quan trọng nhất toàn cầu trong nửa đầu năm nay chính là việc Triều Tiên và Nga ký kết “Hiệp ước Đối tác Chiến lược Toàn diện”. Hiệp ước này quy định rằng: khi một bên bị xâm lược và ở trong tình trạng chiến tranh, bên kia sẽ ngay lập tức sử dụng tất cả các phương tiện mà mình có theo Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc gia của mình để cung cấp viện trợ quân sự và các hỗ trợ khác. Đây là lần đầu tiên sau Chiến tranh Lạnh, một quốc gia Đông Á và một quốc gia châu Âu ký kết hiệp ước liên minh quân sự. Nó mang ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự chuyển đổi của chiến tranh Nga-Ukraine và tình hình Triều Tiên từ xung đột khu vực sang đối đầu quốc tế.

Theo luật pháp Nga, bốn tỉnh phía Đông Ukraine đã sáp nhập Nga bằng “trưng cầu dân ý”, thuộc lãnh thổ của Nga. Hiện tại, quân đội Ukraine đang chiến đấu với Nga ở khu vực phía Đông Ukraine, tương đương với việc Nga bị Ukraine “xâm lược”. Không chỉ vậy, vì Triều Tiên đã công nhận kết quả trưng cầu dân ý của bốn tỉnh phía Đông Ukraine, theo quy định của hiệp ước quân sự giữa Triều Tiên và Nga, Triều Tiên có thể gửi quân đội hoặc lao động sang châu Âu để giúp Nga chiến đấu. Nếu Triều Tiên thực sự làm vậy, châu Âu chắc chắn sẽ có biện pháp đối phó, và ảnh hưởng của NATO có thể sẽ lan sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng sẽ liên kết chặt chẽ hơn, thành lập liên minh quân sự Mỹ-Nhật-Hàn. Điều này sẽ khiến Trung Quốc đối mặt với nhiều áp lực hơn từ phương Tây.

Trong suốt lịch sử nhân loại, chiến tranh thế giới thường có hai tiền đề :

  • Sự hình thành của hai phe lớn
  • Sự mâu thuẫn giữa hai phe lớn trở nên không thể hòa giải.

Tiền đề của Thế chiến II là Hiệp ước Liên minh Đức-Ý được ký vào năm 1936, quy định rằng khi một bên bị cuốn vào chiến tranh, bên kia phải cung cấp hỗ trợ quân sự. Năm 1937, Đức, Nhật Bản và Ý ký Hiệp ước Chống Quốc tế Cộng sản, chính thức hình thành trục Berlin-Tokyo-Rome. Mặt khác, mặc dù Chính sách Kinh tế mới của Roosevelt tạm thời làm kinh tế Mỹ phục hồi, nhưng đến năm 1938, kinh tế Mỹ lại suy thoái lần thứ hai, các nước tư bản lại đối mặt với vấn đề dư thừa công suất sản xuất, và chủ nghĩa bảo hộ thương mại trỗi dậy. Các đế quốc thực dân cũ như Anh, Pháp, Hà Lan và các quốc gia mới nổi như Đức, Ý, Nhật Bản nảy sinh mâu thuẫn không thể hòa giải, trong đó các quốc gia mới nổi khao khát có được thị trường và nguồn cung nguyên liệu. Năm 1939, Đức xâm lược Ba Lan, chiến tranh thế giới chính thức bùng nổ.

Tiền đề của Thế chiến I là Hiệp ước Liên minh Pháp-Nga được ký vào năm 1893, quy định rằng khi một bên bị Đức hoặc Ý/Áo tấn công, bên kia phải cung cấp hỗ trợ toàn diện. Từ đó, châu Âu hình thành hai khối quân sự lớn là Pháp-Nga và Đức-Ý-Áo. Năm 1904, Anh và Pháp ký thỏa thuận trao đổi lợi ích về các vấn đề như Ai Cập, Maroc, Thái Lan. Năm 1907, Anh và Nga ký thỏa thuận, đạt được sự thỏa hiệp về các vấn đề như Ba Tư, Afghanistan, Tây Tạng của Trung Quốc. Xu hướng đối kháng giữa các phe ở châu Âu càng thêm nghiêm trọng. Mâu thuẫn chính giữa phe Hiệp ước và phe Liên minh bao gồm bốn cặp: mâu thuẫn về quyền lực biển giữa Đức và Anh (cuộc chạy đua vũ trang trên biển), mâu thuẫn về quyền lực đất liền giữa Đức và Pháp, mâu thuẫn giữa Đế quốc Áo-Hung và Nga về khu vực Balkan và các vấn đề dân tộc (chủ nghĩa Slav lớn), nỗi sợ hãi của Đức về công nghiệp hóa của Nga. Khi mâu thuẫn địa chính trị gia tăng, vụ ám sát tại Sarajevo năm 1914 đã nhanh chóng cuốn các quốc gia châu Âu vào cuộc chiến, nhân loại chứng kiến sự bùng nổ của Thế chiến I.

Chiến tranh Nga-Nhật là cuộc chiến tranh quốc tế đầu tiên của thế kỷ 20.

Là cuộc chiến quốc tế đầu tiên của thế kỷ 20, tiền đề của Chiến tranh Nga-Nhật là Hiệp ước Liên minh Anh-Nhật được ký vào năm 1902, quy định rằng khi một bên tham chiến với một nước thứ ba ở Viễn Đông, bên kia sẽ giữ trung lập; khi một bên tham chiến với nhiều nước, bên kia sẽ cung cấp viện trợ quân sự.

Năm 1903, cuộc đàm phán giữa Nga và Nhật Bản về “kế hoạch trao đổi Mãn Hàn” đổ vỡ, Nhật Bản lo ngại rằng sau khi đường sắt Siberia của Nga hoàn thành, Nga sẽ có lợi thế áp đảo ở Viễn Đông. Mặt khác, Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt sau khi nhậm chức đã quyết định tăng cường khả năng can thiệp của Mỹ ra nước ngoài, nhằm kiềm chế sự mở rộng của Nga ở Viễn Đông.

Năm 1904, dưới sự hỗ trợ của Anh và Mỹ, Nhật Bản đã tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Nga, Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ. Mặc dù đã ký hiệp ước quân sự với Nga, nhưng Pháp không muốn Nga dồn chiến lược vào Đông Á và lo ngại sự can thiệp của Anh, nên chỉ cung cấp hỗ trợ hạn chế. Chỉ có Đức tích cực cung cấp viện trợ cho Nga, vì Đức muốn Nga mở rộng ở Đông Á để giảm áp lực quân sự từ Đông Âu. Chiến tranh Nga-Nhật không chỉ làm gia tăng mâu thuẫn nội bộ của Nga mà còn khiến chính sách đối ngoại của Nga chuyển từ “mở rộng về phía Đông” sang “tiến về phía Tây”, đặt nền móng cho sự bùng nổ của Thế chiến I.

Chiến tranh bảy năm.

Cuộc chiến bảy năm, được gọi là “Thế chiến thứ không”, không chỉ làm các cường quốc châu Âu cuốn vào mà còn lan rộng ra các thuộc địa hải ngoại như Bắc Mỹ và Ấn Độ. Sau Chiến tranh Kế vị Áo, Phổ đã chiếm được vùng Silesia giàu có từ Áo, thay thế Pháp trở thành mối đe dọa lớn nhất của Áo. Không chỉ vậy, sự mở rộng của Phổ cũng khiến Nga lo ngại, vì Nga luôn coi Ba Lan là phạm vi ảnh hưởng của mình. Thụy Điển cũng có ý định lấy lại vùng Pomerania từ tay Phổ. Mặt khác, mâu thuẫn về thuộc địa hải ngoại giữa Anh và Pháp ngày càng gay gắt, Pháp cố gắng chiếm đất Hanover của Anh để buộc Anh nhượng bộ trong các vấn đề ở Bắc Mỹ và Ấn Độ.

Trong vài thập kỷ trước đó, Áo, Hà Lan và Anh duy trì liên minh để chống lại quyền bá chủ của Pháp. Tuy nhiên, khi quyền lực đất liền của Áo suy yếu, Anh chủ động xích lại gần Phổ, hy vọng Phổ sẽ bảo vệ Hanover. Năm 1756, Anh và Phổ ký Hiệp ước Westminster, mặc dù đây là một hiệp ước phòng thủ, nhưng lại khiến Pháp và Áo lo sợ bị cô lập. Dưới sự hòa giải của Ngoại trưởng Áo Kaunitz, Pháp và Áo đã ký Hiệp ước Versailles, thiết lập nghĩa vụ phòng thủ chung, sau đó Nga, Saxony, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Bayern, Savoy và các nước khác lần lượt gia nhập phe Pháp-Áo, trong khi Bồ Đào Nha và Hessen gia nhập phe Anh.

Ý nghĩa của “Cuộc chiến Bảy năm” nằm ở chỗ, nó không chỉ là một cuộc đối đầu quân sự mà còn là một cuộc cạnh tranh kinh tế. Nếu như Phổ và Áo chủ yếu đối đầu về địa chính trị, thì Anh và Pháp lại đối đầu nhiều hơn về kinh tế. Lý do Anh ủng hộ Phổ là để kiềm chế Pháp ở châu Âu; đồng thời, Anh nhân cơ hội này chiếm đóng các thuộc địa hải ngoại của Pháp. Cuối cùng, do tân Sa hoàng Nga Peter III quay lưng, phe Pháp-Áo đã thua cuộc chiến. Áo không thể thu hồi Silesia và mất quyền kiểm soát tuyệt đối đối với Đức; Pháp mất đi các thuộc địa hải ngoại rộng lớn và mắc phải khoản nợ khổng lồ, khiến Vua Louis XV mất đi sự ủng hộ của dân chúng. Các vấn đề về nợ và tài chính trở thành nguyên nhân dẫn đến Cách mạng Pháp.

Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ.

Mặc dù Anh trở thành người chiến thắng trong Chiến tranh Bảy năm, giành được nhiều thuộc địa ở Bắc Mỹ từ tay Pháp, nhưng chiến tranh kéo dài buộc Anh phải tăng thuế thuộc địa, khiến người dân Bắc Mỹ không chịu nổi gánh nặng và phát động “Sự kiện Tiệc Trà Boston”, trở thành ngòi nổ cho Chiến tranh Độc lập Mỹ. Cuộc chiến này nhanh chóng biến thành xung đột quốc tế, với Anh đứng về một phía, và Pháp cùng Mỹ đứng về phía kia. Do không hài lòng với việc Anh chặn bắt tàu của các nước trung lập, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, Nga, Phổ, Hà Lan, Thụy Điển và các nước khác đã thành lập “Liên minh Trung lập Vũ trang” để gây áp lực lên Anh. Sau khi tiêu tốn nhiều tiền bạc mà không đạt được kết quả, Anh buộc phải ký hiệp định, công nhận độc lập của Mỹ.

Mối quan hệ giữa Putin và Kim Jong-un đã gần gũi hơn một cách rõ ràng.

Ở một mức độ nào đó, hiệp ước quân sự giữa Nga và Triều Tiên đã khiến tiến trình của chiến tranh thế giới tăng từ 49% lên 50%, bóng ma của Thế chiến III đang bao phủ xã hội loài người. Sau đó, Nga có thể sẽ ký một hiệp ước quân sự tương tự với Iran, chính thức tạo ra nhóm ba nước “Bình Nhưỡng – Tehran – Moscow”, đối đầu trực diện với thế giới phương Tây. Không chỉ vậy, Putin còn đã thăm Việt Nam, Nga và Việt Nam sẽ hợp tác trong lĩnh vực công nghệ hạt nhân.

Đối với Mỹ, hiệp ước quân sự giữa Triều Tiên và Nga là điều mà họ rất mong muốn thấy. Kể từ khi lên nắm quyền, Biden luôn thổi phồng liên minh “Trung – Nga – Triều – Iran” với hai mục đích:

  • Một mặt là nhằm gây chia rẽ quan hệ Trung-Âu, kích động châu Âu hợp tác với Mỹ chống Trung Quốc.
  • Mặt khác, trong lịch sử Mỹ có truyền thống cô lập, Đảng Cộng hòa không có lập trường vững chắc trong việc viện trợ Ukraine, nhưng lại có thái độ cứng rắn đối với Trung Quốc và Iran. Bằng cách gộp Trung Quốc, Nga và Iran lại với nhau, Biden có thể thuyết phục cử tri Đảng Cộng hòa từ bỏ chủ nghĩa cô lập và thực hiện chiến lược mở rộng toàn cầu.

Đối với Trung Quốc, Nga tuy là đối tác hợp tác địa chính trị, nhưng châu Âu lại là khách hàng hạ nguồn quan trọng nhất. Trong bối cảnh dần dần tách rời khỏi Mỹ, nếu Trung Quốc mất luôn thị trường châu Âu, tác động đến ngành ngoại thương sẽ rất lớn. Vì vậy, Trung Quốc cần duy trì quan hệ ngoại giao cân bằng giữa Nga và Liên minh châu Âu, tránh xung đột trực tiếp với EU. Mặt khác, do Trung Quốc đã ký hiệp ước liên minh quân sự với Triều Tiên, Trung Quốc cần gây áp lực để Triều Tiên không gửi quân đến châu Âu, nhằm tránh bị kéo vào cuộc chiến tranh thế giới bởi Triều Tiên và Nga.

Tuy nhiên, nhìn từ tiến trình lịch sử, Trung Quốc chỉ có thể trì hoãn thời gian tách rời khỏi Mỹ và châu Âu, nhưng khó thay đổi hướng đi của sự tách rời này. Nếu có thể duy trì chính sách không liên minh trong quân sự, Trung Quốc có thể tránh được chiến tranh nóng, nhưng khó tránh khỏi chiến tranh lạnh. Trong bối cảnh đối kháng giữa các phe, thế giới có thể được chia thành ba nhóm quốc gia.

Thế giới có thể được chia thành ba nhóm quốc gia.

Các phe chính trên thế giới hiện nay

Nhóm thứ nhất của các quốc gia thuộc nhóm phương Đông, đại diện là Trung Quốc, Nga và Iran, có những yêu cầu chung về việc chống lại bá quyền của Mỹ, và có ưu thế về quyền lực đất liền. Phe phương Đông nỗ lực tái thiết trật tự toàn cầu, xây dựng hệ thống chính trị quốc tế với trung tâm là lục địa Á-Âu.

Nhóm quốc gia thứ hai đại diện là Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, thuộc phe phương Tây, kết nối với nhau bằng các giá trị chung và có ưu thế về quyền lực biển. Sau Thế chiến II, phe phương Tây đã độc quyền kiểm soát chuỗi giá trị toàn cầu và sử dụng các biện pháp quân sự, công nghệ và thương mại để đàn áp các đối thủ cạnh tranh, duy trì vị thế ưu thế của mình.

Nhóm quốc gia thứ ba, đại diện là Ấn Độ, Đông Nam Á, Ả Rập Saudi và Brazil, là những quốc gia chung lập. Mặc dù các quốc gia này có trình độ công nghệ lạc hậu, nhưng lại sở hữu nguồn tài nguyên khoáng sản và nhân lực phong phú. Trong bối cảnh đối đầu giữa hai phe lớn, các quốc gia chung lập là đối tượng mà cả hai phe đều muốn lôi kéo, tạo ra môi trường ngoại giao tốt nhất trong lịch sử và nhận được cơ hội phát triển quý báu.

Từ góc độ đối kháng giữa các phe, hiện tại trên toàn cầu chủ yếu có ba chiến trường chính.

Tại chiến trường châu Âu, cuộc chiến Nga-Ukraine trở thành cuộc xung đột ủy nhiệm lớn nhất sau Thế chiến II, khi Nga một mình đối đầu với 25% sức mạnh quân sự của toàn bộ châu Âu và Mỹ. Mặc dù châu Âu có nền kinh tế phát triển hơn, nhưng công nghiệp quân sự lại bị bỏ quên trong thời gian dài, và ý chí viện trợ Ukraine trong hệ thống bầu cử không chắc chắn. Cuộc chiến Nga-Ukraine rơi vào tình trạng bế tắc, khó phân thắng bại trong thời gian ngắn.

Tại chiến trường Đông Á, Trung Quốc gần như một mình kiềm chế 70% sức mạnh quân sự của Mỹ cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Philippines. Mỹ sở hữu hải quân mạnh nhất thế giới và cố gắng phong tỏa Trung Quốc trên đất liền thông qua chuỗi đảo thứ nhất. Tuy nhiên, Trung Quốc sở hữu 30% ngành sản xuất toàn cầu và có lợi thế chiến đấu gần bờ. Hiện tại, Trung-Mỹ đang ở trạng thái đối đầu lâu dài tại khu vực Tây Thái Bình Dương, cả hai bên đều không muốn phá vỡ hiện trạng trong thời gian ngắn.

Tại chiến trường Trung Đông, Iran và Israel đang diễn ra cuộc xung đột ủy nhiệm gay gắt. Do Mỹ thực hiện chiến lược rút khỏi Trung Đông, số lượng quân Mỹ đồn trú tại khu vực này giảm mạnh. Trục kháng chiến do Iran dẫn đầu chỉ phải đối mặt với 5% sức mạnh quân sự của Israel và Mỹ. Trên cơ sở xung đột Palestine-Israel, trục kháng chiến đã mở thêm hai mặt trận mới tại Biển Đỏ và Lebanon, tạo thế tấn công từ hai phía đối với Israel.

Có thể thấy, điểm đột phá trong cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ nằm ở khu vực Ấn Độ Dương. Hiện tại, dù là chiến trường Nga-Ukraine hay tình hình Đông Á, châu Âu-Nga và Trung-Mỹ đều ở trạng thái bế tắc. Trung Quốc sở hữu hệ thống sản xuất và nguồn nhân lực khổng lồ, Nga có nguồn tài nguyên khoáng sản và đầu đạn hạt nhân phong phú, hai bên bổ sung lẫn nhau. Trong tình thế liên minh chặt chẽ giữa Trung-Nga, phương Tây không thể đạt được chiến thắng nhanh chóng thông qua các biện pháp trừng phạt kinh tế hoặc can thiệp quân sự. Trong bối cảnh hai phe Đông-Tây cân bằng nhau, các quốc gia chung lập đứng giữa ở Trung Đông, Nam Á và Đông Nam Á trở thành yếu tố quyết định thắng lợi, bên nào lôi kéo được các quốc gia này sẽ nắm được ưu thế.

Từ góc độ kinh tế, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Đông Nam Á, các quốc gia Đông Nam Á rất mong muốn tận dụng sức mạnh của Trung Quốc để công nghiệp hóa. Từ góc độ an ninh, Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ với nhiều quốc gia Đông Nam Á, những quốc gia này lo ngại về sự trỗi dậy quân sự của Trung Quốc, do đó muốn dựa vào Mỹ để duy trì cân bằng địa chính trị. Trong thời gian dài tới, các quốc gia Đông Nam Á sẽ phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và phụ thuộc vào Mỹ về an ninh. Các quốc gia có chế độ bầu cử sẽ dao động giữa Trung-Mỹ theo sự thay đổi của đảng phái cầm quyền (ví dụ như Philippines), trong khi các quốc gia không có chế độ bầu cử sẽ không dễ dàng chọn bên giữa Trung-Mỹ (ví dụ như Việt Nam).

Ấn Độ là yếu tố then chốt trong cuộc đấu giữa Trung-Nga và phương Tây. Trong mười năm tới, Ấn Độ sẽ là nước hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc đấu giữa Trung-Mỹ. Ấn Độ có hơn một tỷ dân, tỷ lệ đô thị hóa chỉ 36%, còn cách xa điểm uốn Lewis. Trong bối cảnh Trung-Mỹ tách rời và chuỗi cung ứng quốc tế chuyển dịch, ngành công nghiệp của Ấn Độ có thể thu hút được lao động giá rẻ và đơn đặt hàng nước ngoài liên tục.

Tuy nhiên, khác với Nhật Bản, Ấn Độ rất mong muốn Trung-Mỹ duy trì thế cân bằng lâu dài. Nếu Mỹ thắng, Ấn Độ sẽ trở thành mục tiêu bị phong tỏa trên biển tiếp theo sau Trung Quốc; nếu Trung Quốc thắng, miền Bắc Ấn Độ sẽ đối mặt với áp lực địa chính trị chưa từng có. Do đó, Ấn Độ không muốn cuộc đấu giữa Trung-Mỹ sớm phân thắng bại, mà muốn kéo dài nhịp độ đối đầu.

Từ khi chiến tranh Nga-Ukraine nổ ra, Ấn Độ vừa tăng cường hợp tác với Mỹ, hỗ trợ chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ; vừa duy trì quan hệ hữu nghị với Nga, thậm chí mua nhiều năng lượng từ Nga để ngăn chặn sự sụp đổ của chế độ Putin. Trước khi cuộc đấu giữa Trung-Mỹ có kết quả rõ ràng, Ấn Độ sẽ không dễ dàng chọn phe, chính phủ Modi có xu hướng áp dụng chính sách cô lập chủ nghĩa như Mỹ đầu Thế chiến I, tận dụng giai đoạn đỏ ngoại giao để phát triển kinh tế đất nước.

Mặc dù có nhiều tài nguyên, nhưng Mỹ Latinh và châu Phi có ảnh hưởng hạn chế đối với cuộc đấu giữa Trung-Mỹ. Mỹ Latinh lâu nay là sân sau của Mỹ, nhưng lại có giao dịch thương mại lớn với Trung Quốc. Sự thay đổi đảng phái cầm quyền ở Mỹ Latinh có ảnh hưởng lớn đến chính sách ngoại giao, với Brazil và Argentina liên tục dao động giữa cánh tả và cánh hữu, chuyển đổi giữa thân Trung và thân Mỹ, không thể hình thành chính sách ngoại giao và thương mại lâu dài, ổn định và có thể dự đoán. Các tài nguyên khoáng sản ở châu Phi chủ yếu phân bố ở khu vực nội địa, cần xây dựng đường sắt và thiết bị khai thác đi kèm, trong ngắn hạn đầu tư không hiệu quả. Hơn nữa, châu Phi thường xuyên xảy ra chiến tranh và đảo chính, tỷ lệ vỡ nợ cao, rủi ro đầu tư lớn.

Trung Đông có khả năng xuất hiện đột phá lớn nhất.

Hiện tại, Trung Đông có ba thế lực chính: Israel được Mỹ ủng hộ, khối Shia và khối Sunni. Xung đột Palestine-Israel chủ yếu là sự đối đầu giữa Israel và khối Shia, trong khi khối Sunni giữ vị trí trung lập. Do đó, lựa chọn của khối Sunni rất quan trọng, nếu khối Sunni nghiêng về Mỹ, Iran sẽ rơi vào tình trạng cô lập; nếu khối Sunni nghiêng về Trung Quốc, Mỹ sẽ phải đầu tư nhiều nguồn lực vào Trung Đông để duy trì cân bằng giữa Israel và Iran.

Từ năm 2010, Mỹ đã thực hiện chiến lược “rút khỏi Trung Đông, trở lại châu Á-Thái Bình Dương”, nhưng kết quả không lý tưởng. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Obama, Trung Đông bùng nổ “Mùa xuân Ả Rập”, các chính phủ Tunisia, Ai Cập, Libya lần lượt sụp đổ, Syria bùng nổ nội chiến, Mỹ và Nga lần lượt can thiệp. Dưới sự can thiệp của Nga, Mỹ không thể đạt được mục tiêu lật đổ chế độ Assad, tiêu tốn nhiều nguồn lực vô ích. Không chỉ vậy, sự xuất hiện của ISIS cũng làm gia tăng tình trạng hỗn loạn ở Trung Đông, kéo dài thời gian Mỹ rút khỏi khu vực này.

Trong nhiệm kỳ thứ hai của Obama, Mỹ đã cố gắng hòa giải với Iran, đúng vào thời điểm Rouhani lên nắm quyền. Mỹ và Iran đã ký kết “Thỏa thuận Hạt nhân Iran” (JCPOA), theo đó Iran sẽ tạm ngừng phát triển vũ khí hạt nhân để đổi lấy việc phương Tây nới lỏng các biện pháp trừng phạt kinh tế. Thỏa thuận này đã bị các quốc gia Sunni như Saudi Arabia phản đối, vì nếu Iran với dân số 90 triệu người có được nguồn lực từ bên ngoài, họ sẽ trở thành quốc gia mạnh nhất ở Trung Đông và đe dọa nghiêm trọng đến các quốc gia vùng Vịnh. Dưới sự dẫn dắt của Saudi Arabia, Liên minh Ả Rập đã can thiệp mạnh mẽ vào cuộc nội chiến Yemen. Mặc dù Liên minh Ả Rập có vũ khí tiên tiến, nhưng do tinh thần chiến đấu thấp và lực lượng Houthi được Iran ủng hộ mạnh mẽ, cả hai bên đã rơi vào tình trạng bế tắc.

Sau khi Trump lên nắm quyền, ông đã xé bỏ thỏa thuận hạt nhân Iran, phá hủy những thành tựu ngoại giao quan trọng nhất của thời kỳ Obama, với lý do thỏa thuận này sẽ giúp Iran có được nguồn thu ngoại tệ lớn để tăng cường sức mạnh quân sự. Chính sách của Mỹ đối với Iran đã chuyển sang cứng rắn và Trump đã ra lệnh ám sát nhân vật cứng rắn của Iran là Soleimani, gián tiếp dẫn đến việc tổng thống Iran thân phương Tây Rouhani phải từ chức. Mặt khác, Liên minh Ả Rập cũng tăng cường tấn công lực lượng Houthi ở Yemen, nhưng hiệu quả hạn chế, trong khi các mỏ dầu của Saudi Arabia lại bị lực lượng Houthi tấn công bằng máy bay không người lái. Thành tựu lớn nhất trong chiến lược Trung Đông của Mỹ dưới thời Trump là “Hiệp định Abraham”, trong đó Mỹ đã dùng việc bán máy bay chiến đấu F-35 cho UAE làm đòn bẩy để thúc đẩy việc bình thường hóa quan hệ giữa UAE, Bahrain và Israel. Mục tiêu cuối cùng của Trump là xây dựng một “Liên minh Chiến lược Trung Đông” (MESA) tương tự như NATO, để Israel và các quốc gia vùng Vịnh liên kết chống lại Iran.

Sau khi Biden lên nắm quyền, ông đã cố gắng khởi động lại các cuộc đàm phán về thỏa thuận hạt nhân Iran, nhưng cuộc xung đột Gaza do Israel khơi mào đã phá hoại các cuộc đàm phán Mỹ-Iran. Sau đó, Biden quay trở lại chính sách Trung Đông thời Trump. Một mặt, Mỹ kiên trì rút khỏi Trung Đông, dù phải trả giá bằng việc Taliban chiếm lại quyền lực ở Afghanistan, nhưng về lâu dài điều này có lợi cho Mỹ. Mặt khác, Biden tiếp tục thúc đẩy việc bình thường hóa quan hệ giữa Saudi Arabia và Israel dựa trên Hiệp định Abraham. Không chỉ vậy, Mỹ còn đứng đầu việc thành lập “Liên minh Phòng không Trung Đông” với sự tham gia của Israel, Saudi Arabia, Jordan và UAE để cùng chống lại các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và tên lửa từ Iran.

Năm 2023, do lo ngại về sự thay đổi thất thường trong chính sách ngoại giao của Mỹ, dưới sự hòa giải của Trung Quốc, Saudi Arabia và Iran đã khôi phục quan hệ ngoại giao tại Bắc Kinh và cùng kết thúc cuộc nội chiến kéo dài ở Yemen. Việc hòa giải giữa Sunni và Shia đã khiến tình hình địa chính trị của Israel trở nên tồi tệ. Để bù đắp, chính quyền Biden đã quyết định tăng cường sự ủng hộ, nâng Saudi Arabia lên thành đồng minh theo hiệp ước của Mỹ, cung cấp đảm bảo an ninh chính thức nhằm thu hút Saudi Arabia thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel. Tháng 9 năm ngoái, Mỹ, Saudi Arabia và Israel đã đạt được tiến bộ trong các cuộc đàm phán, chỉ còn một bước nữa là ký kết thỏa thuận. Để tránh bị cô lập về ngoại giao, Iran đã chủ động lên kế hoạch cho Chiến dịch “Cơn lũ Al-Aqsa”, hỗ trợ Hamas tấn công Israel và thành công phá hoại quá trình thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Saudi Arabia và Israel.

Nội dung chính của Thỏa thuận An ninh Mỹ-Saudi:

  1. Mỹ cam kết cung cấp đảm bảo an ninh có giới hạn cho Saudi Arabia.
  2. Saudi Arabia đồng ý tăng sản lượng dầu trong nửa cuối năm.
  3. Mỹ nới lỏng hạn chế bán vũ khí tiên tiến cho Saudi Arabia.
  4. Mỹ chuyển giao công nghệ hạt nhân dân dụng cho Saudi Arabia.
  5. Mỹ giúp Saudi Arabia phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và bán dẫn.
  6. Hạn chế quỹ chủ quyền của Saudi Arabia đầu tư vào ngành công nghệ cao của Trung Quốc.

Kể từ đầu năm nay, khi cuộc chiến ở Gaza dần đi đến hồi kết, Mỹ đã tái khởi động các cuộc đàm phán với Saudi Arabia. Sau khi thực hiện một số nhượng bộ, thỏa thuận an ninh giữa Mỹ và Saudi Arabia đã đạt được tiến triển mới. Nếu thỏa thuận này được ký kết, Mỹ sẽ cung cấp đảm bảo an ninh cho Saudi Arabia bằng hình thức lập pháp, và Saudi Arabia sẽ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel, thực hiện bước quan trọng nhất trong việc hòa giải giữa cộng đồng Sunni và Do Thái giáo. Không chỉ vậy, Mỹ còn yêu cầu quỹ chủ quyền của Saudi Arabia ngừng đầu tư vào ngành công nghiệp bán dẫn và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc, nhằm làm suy yếu lợi thế về vốn của ngành công nghệ cao Trung Quốc.

Thực tế, kế hoạch của Mỹ ở Trung Đông là để Saudi Arabia và Israel hợp tác, cùng nhau chống lại Iran. Kế hoạch của Trung Quốc ở Trung Đông là thúc đẩy sự hòa giải giữa cộng đồng Sunni và Shia, liên kết chống lại Israel. Biến số quan trọng nhất nằm ở lập trường của cộng đồng Sunni. Nếu thỏa thuận an ninh Mỹ-Saudi được thực hiện, Saudi Arabia sẽ giống như Hàn Quốc, phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế nhưng hoàn toàn dựa vào Mỹ về an ninh. Chính sách ngoại giao của Saudi Arabia chắc chắn sẽ dựa trên việc không làm phật lòng Mỹ, và mất đi lựa chọn thân thiện với Trung Quốc.

Xa hơn, trong cuộc đấu lớn giữa Trung Quốc và Mỹ, Trung Đông giống như là điểm đột phá quan trọng nhất. Trong bối cảnh bế tắc trong khu vực nội địa, chiến tranh Nga-Ukraine và tình hình châu Á-Thái Bình Dương đang trong tình trạng đối đầu, ai có thể kiểm soát Trung Đông trước sẽ chiếm được thế chủ động.

Mặc dù việc liên kết với Saudi Arabia sẽ tăng gánh nặng phòng thủ cho Mỹ, nhưng xét về góc độ dài hạn, thỏa thuận an ninh Mỹ-Saudi có lợi nhiều hơn cho Mỹ. Thỏa thuận này sẽ tái định hình cấu trúc địa chính trị của Trung Đông và phá hoại nỗ lực hòa giải giữa Saudi Arabia và Iran của Trung Quốc. Iran là mắt xích yếu nhất của phe phương Đông, và có thể xảy ra cuộc cách mạng màu bất cứ lúc nào, dễ gây ra phản ứng dây chuyền. Do đó, trọng tâm ngoại giao tiếp theo của Trung Quốc nên là ngăn chặn Mỹ và Saudi Arabia ký kết thỏa thuận an ninh, tránh hình thành liên minh chiến lược chống Iran ở Trung Đông.

Xét đến yếu tố bầu cử Mỹ, chính sách Trung Đông của Mỹ trong tương lai còn nhiều bất ổn. Hiện tại, tình hình bầu cử của Biden đang gặp khủng hoảng, Nhà Trắng khó có thể thúc đẩy nhanh chóng các cuộc đàm phán về thỏa thuận an ninh với Saudi Arabia, vì chính phủ Saudi Arabia có thể lo ngại rằng chính quyền Biden không có khả năng thúc đẩy thỏa thuận này thông qua Thượng viện trước cuộc bầu cử Mỹ. Vì vậy, cần xem xét tình hình sau cuộc bầu cử Mỹ.

Nếu Trump lên nắm quyền, mặc dù Trump có ý định tiếp tục thúc đẩy việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Saudi Arabia và Israel dựa trên Hiệp định Abraham, nhưng nếu Trump không muốn Mỹ gánh vác nghĩa vụ phòng thủ cho Saudi Arabia, Saudi Arabia cũng không có động lực để thiết lập quan hệ ngoại giao với Israel. Rốt cuộc, Saudi Arabia đã phải nỗ lực rất nhiều để khôi phục quan hệ với Iran, không cần thiết phải làm phật lòng Iran để làm hài lòng Mỹ. Dự kiến trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump, Saudi Arabia sẽ dao động giữa Trung Quốc và Mỹ, sử dụng công nghệ của Trung Quốc để phát triển ngành công nghiệp năng lượng mặt trời.

Nếu Biden tái đắc cử, Biden có hai lựa chọn. Một là tiếp tục thúc đẩy thỏa thuận an ninh Mỹ-Saudi, sau khi không còn áp lực bầu cử, chính quyền Biden không còn cần Saudi Arabia giúp kiểm soát giá dầu, nên có thể có nhiều cơ sở hơn trong các cuộc đàm phán và giảm số tiền phải trả cho Saudi Arabia. Lựa chọn thứ hai là khởi động lại thỏa thuận hạt nhân Iran, bởi vì Iran đã bầu chọn tổng thống cải cách mới, điều này có thể là tín hiệu thiện chí từ Khamenei. Là lãnh tụ tối cao, Khamenei nổi tiếng là người thực dụng, ngay cả khi phe bảo thủ cầm quyền, Iran cũng chưa từng thực sự phát triển vũ khí hạt nhân, đối với Iran, việc phát triển hạt nhân chủ yếu là con bài để ép buộc hoặc lôi kéo Mỹ. Do bị trừng phạt kinh tế lâu dài, tình hình dân sinh ở Iran đáng lo ngại, cần cải thiện quan hệ với phương Tây để đổi lấy nguồn thu ngoại tệ. Nếu Biden có thể bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai, chính sách ngoại giao của Mỹ sẽ có tính nhất quán và bền vững hơn, và Iran sẽ có động lực để ký kết lại thỏa thuận hạt nhân với Mỹ, đảm bảo quá trình chuyển giao quyền lực nội bộ diễn ra suôn sẻ.

Tuy nhiên, không có bữa trưa nào miễn phí, nếu Mỹ và Iran khôi phục quan hệ, sẽ gây ra sự bất mãn từ Israel và các quốc gia Sunni. Iran có tiềm lực rất mạnh, một khi có được môi trường bên ngoài thuận lợi, họ sẽ có thêm nhiều nguồn lực để tăng cường quốc phòng. Mâu thuẫn giữa Israel và các quốc gia Sunni chủ yếu là về tôn giáo, nhưng mâu thuẫn với Iran lại là về địa chính trị.

Trong cuộc đấu ba bên giữa Mỹ, Saudi Arabia và Iran, Mỹ là bên chiếm thế chủ động. Nếu Iran thực hiện chính sách chống Mỹ và không nhượng bộ trong xung đột Palestine-Israel, Mỹ có thể thúc đẩy các cuộc đàm phán về thỏa thuận an ninh với Saudi Arabia, tạo ra một “NATO phiên bản Trung Đông” để chống lại Iran.

Nếu Saudi Arabia thực hiện chính sách thân Trung Quốc và không hợp tác với Mỹ về vấn đề năng lượng, Mỹ có thể khởi động lại các cuộc đàm phán về thỏa thuận hạt nhân với Iran, khôi phục quan hệ Mỹ-Iran để thực hiện mục tiêu rút khỏi Trung Đông. Mỹ thậm chí có thể đồng thời thúc đẩy các cuộc đàm phán về thỏa thuận an ninh Mỹ-Saudi và thỏa thuận hạt nhân Iran, khiến Saudi Arabia và Iran phải nhượng bộ trên bàn đàm phán vì lo sợ bị cô lập. So với việc đối đầu lâu dài giữa Saudi Arabia và Iran, việc hòa giải chiến thuật, tạm thời giữa hai nước này là khó khăn hơn nhiều, ngay cả khi có sự đảm bảo của Bắc Kinh, Saudi Arabia và Iran vẫn lo ngại đối phương có động cơ lật đổ chế độ của mình, chuỗi nghi ngờ này rất khó loại bỏ.

Về vấn đề Trung Đông, Mỹ thực sự có nhiều không gian để thao túng. Washington có thể sử dụng đảm bảo an ninh làm đòn bẩy để lôi kéo Saudi Arabia, hoặc dùng việc dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt kinh tế để thu hút Iran. Khi tình hình đến mức không thể cứu vãn, Mỹ thậm chí có thể hy sinh lợi ích của Israel, hoặc tạm thời rút khỏi Trung Đông (bởi Mỹ đã đạt được độc lập năng lượng). Đối với Trung Quốc, việc hoạt động ở Trung Đông vừa có cơ hội vừa có thách thức, ở đây có nguồn năng lượng mà Trung Quốc rất cần, nhưng đồng thời cũng đầy rẫy bất ổn và xung đột, nếu không xử lý khéo léo, rất dễ bị cuốn vào vòng xoáy.

Cuộc đối đầu giữa các phe Trung-Mỹ, ở một mức độ nào đó, là sự tổn thất hiệu quả của toàn nhân loại. Trung Quốc có lợi thế về chi phí, dẫn đầu trong lĩnh vực năng lượng tái tạo; Mỹ có lợi thế về đổi mới, dẫn đầu trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Về mặt lộ trình công nghiệp, Trung Quốc đặt cược vào năng lượng tái tạo và xe điện, hy vọng chi phí sản xuất điện sẽ giảm; Mỹ đặt cược vào trí tuệ nhân tạo và robot, hy vọng năng suất sản xuất sẽ tăng.

Nền kinh tế Trung-Mỹ lẽ ra nên là mối quan hệ bổ sung lẫn nhau, hiện tại, nút thắt lớn nhất của trí tuệ nhân tạo là khả năng tính toán, cần có nhu cầu mạnh mẽ về chip hiệu năng cao, nhưng về lâu dài, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo phụ thuộc vào điện năng, mô hình AI lớn cần được cung cấp liên tục điện năng. Để giải quyết vấn đề thiếu hụt điện năng, cần dựa vào năng lượng mặt trời + lưu trữ năng lượng, không thể thiếu sản phẩm và công nghệ của Trung Quốc. Mặt khác, về lâu dài, sự phát triển của xe điện là xu hướng tự lái, hiệu quả năng lượng tái tạo cũng cần có lưới điện thông minh để phối hợp, những điều này đều không thể thiếu công nghệ trí tuệ nhân tạo.

Tuy nhiên, việc Trung-Mỹ tách rời khiến sự phát triển năng lượng tái tạo của Mỹ bị hạn chế, phải phụ thuộc nhiều hơn vào năng lượng truyền thống; Trung Quốc thì gặp khó khăn về chip, có khoảng cách lớn so với Mỹ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Tình hình này là một tổn thất lớn đối với toàn nhân loại, các cuộc cách mạng công nghệ trong lịch sử thường là kết quả của sự cộng hưởng giữa nhiều ngành công nghiệp, ví dụ như cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai là sự cộng hưởng giữa cuộc cách mạng điện ở châu Âu và cuộc cách mạng ô tô ở Mỹ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư lẽ ra nên là sự kết hợp giữa cuộc cách mạng năng lượng tái tạo của Trung Quốc và cuộc cách mạng trí tuệ nhân tạo của Mỹ. Tuy nhiên, do sự đối đầu giữa hai phe lớn, sự trao đổi khoa học công nghệ và thương mại giữa Trung-Mỹ giảm, khiến thế giới không thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng năng suất các yếu tố tổng hợp, chỉ có thể tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên nợ, điều này sẽ làm gia tăng rủi ro dân túy và xung đột địa chính trị.

Trong lĩnh vực quân sự, năng lượng tái tạo có thể giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào năng lượng từ bên ngoài, giảm rủi ro bị phong tỏa tại eo biển Malacca. Trí tuệ nhân tạo có thể mang lại sự thay đổi đột phá trong mô hình chiến tranh, biến máy bay không người lái và robot trở thành lực lượng chủ lực trên chiến trường.

Trong tương lai, nếu thế giới đặt an ninh lên hàng đầu, Mỹ sẽ có lợi thế vì Mỹ có thể dựa vào hải quân viễn dương để cung cấp “bảo vệ” cho các đồng minh; nếu đặt phát triển lên hàng đầu, Trung Quốc sẽ có lợi thế vì Trung Quốc là quốc gia công nghiệp và thương mại lớn nhất thế giới, có thể giúp các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh giải quyết vấn đề thiếu điện và cơ sở hạ tầng. Cuộc đấu Trung-Mỹ không chỉ là cuộc đấu về địa chính trị và kinh tế, mà còn là cuộc đấu về mô hình và văn hóa.

 

Xem thêm

spot_img

Theo dõi trên Telegram

Tham gia nhóm telegram để trao đổi, theo dõi các bài viết nhanh nhất và các tín hiệu giao dịch từ XM TEAM Research.

Cùng tác giả

Kỷ Nguyên Ổn Định và Kỷ Nguyên Hỗn Loạn

Lịch sử nhân loại có thể được chia thành hai giai đoạn: một là Kỷ Nguyên Ổn Định, trong đó thế giới có xu hướng ổn định và phát triển; hai là Kỷ Nguyên Hỗn Loạn, khi thế giới...

Câu Chuyện Về Trump: Từ Hậu Trường Gia Đình Đến Sân Khấu Chính Trị

Đã có rất nhiều thông tin về những sự kiện sau khi Trump đắc cử Tổng thống đã được công bố rộng rãi, nhưng những trải nghiệm và câu chuyện trước khi ông bước chân vào chính trường lại...

Kết quả bầu cử có ảnh hưởng hạn chế đến Fed trong ngắn hạn

Trong cuộc họp chính sách lần này, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã hạ lãi suất 25 điểm cơ bản (BP) đúng như dự kiến. Nhìn chung, Chủ tịch Jerome Powell không đưa ra nhiều hướng dẫn bổ...

Tận hưởng các chức năng độc quyền dành cho thành viên của chúng tôi

Nhận đăng ký trực tuyến và bạn có thể mở khóa bất kỳ bài viết độc quyền nào.