Trang chủChia sẻTìm hiểu kiến...

Tìm hiểu kiến thức cơ bản của giao dịch quyền chọn (Options) trong một bài viết

Hợp đồng quyền chọn (option) là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực tài chính, mang lại nhiều sự linh hoạt và tiềm năng lớn. Tuy nhiên, với sự phức tạp và những vấn đề tiềm ẩn khác, việc hiểu rõ về hợp đồng quyền chọn trở thành yếu tố quyết định thành công trong việc đầu tư và kinh doanh. Trong bài viết này chúng tôi xin chia sẻ tới các bạn đọc tất cả các kiến thức cơ bản về giao dịch quyền chọn. Sau đây là nội dung chi tiết.

I.Khái niệm và các loại quyền chọn

1.Khái niệm về quyền chọn

Quyền chọn (options) hay còn gọi là tùy họn, là quyền mua hoặc bán một số lượng hàng hóa hoặc công cụ tài chính nhất định ở mức giá đã thỏa thuận trong một khoảng thời gian cụ thể trong tương lai. Giao dịch quyền chọn là hoạt động mua bán các quyền này.

Trong giao dịch quyền chọn, sau khi người mua quyền chọn trả một khoản phí nhất định cho người bán quyền chọn, họ sẽ có quyền mua hoặc bán một lượng hàng hóa nhất định hoặc hợp đồng tương lai ở một mức giá nhất định tại một thời điểm nhất định trong tương lai.

Ở đây, để hiểu chính xác các khái niệm liên quan đến quyền chọn, trước tiên chúng ta sẽ lấy 2 ví dụ đơn giản sau đây:

[Ví dụ 1] Có hai nhà giao dịch quyền chọn là A và B. Anh A là người mua quyền chọn và Anh B là người bán quyền chọn. Vào ngày 8 tháng 5 năm 2024, nhà đầu tư A trả cho B 1 USD để mua quyền mua 1 Hợp đồng* vàng với giá 10 USD/một hợp đồng vào ngày 20 tháng 6 năm đó, Anh B nhận được 1 đô la.
Giả sử đến ngày 20 tháng 6, sẽ có 4 tình huống sau xảy ra (bỏ qua phí giao dịch).

  • (1) Giá thị trường của hợp đồng vàng tăng lên 14 USD, nhà đầu tư A thực hiện các quyền của mình: Theo thỏa thuận, Anh A mua 1 hợp đồng Vàng của B với giá 10 USD/HĐ rồi sau đó bán hợp đồng vàng đó trên thị trường với giá 14 USD. Lãi của anh A là 3$.(14-10-1=3).
  • (2) Giá thị trường của hợp đồng vàng tăng lên 11 USD và nhà đầu tư A thực hiện các quyền của mình: Theo thỏa thuận, A mua 1 hợp đồng vàng của B với giá 10 USD/HĐ sau đó bán ra thị trường với giá 11 USD, Trường hợp này lãi của anh A =0.
  •  (3) Giá hợp đồng vàng trên thị trường vẫn là 10 USD nhà đầu tư A từ bỏ quyền của mình và bị mất 1 USD.
  • (4) Giá Hợp đồng Vàng trên thị trường giảm xuống còn 7 USD, nhà đầu tư A từ bỏ quyền của mình và bị mất 1 USD.

[Ví dụ 2] Ngoài ra còn có hai nhà giao dịch quyền chọn C và D. Trong đó C là người mua quyền chọn và D là người bán quyền chọn. Vào ngày 08/5/2024, nhà đầu tư C trả cho D 1USD để mua quyền bán 1 hợp đồng Vàng với giá 10USD/HĐ vào ngày 20 tháng 7 và D nhận được 1USD.
Giả sử rằng đến ngày 20 tháng 7, sẽ có 4 tình huống sau xảy ra (bỏ qua phí giao dịch).

  • (1) Giá thị trường của HĐ vàng giảm xuống còn 6 USD và nhà đầu tư C thực hiện quyền của mình: C mua 1 HĐ lúc này trên thị trường với giá 6 đô la Mỹ một cổ phiếu, sau đó bán cho nhà đầu tư D với giá giá 10 đô la Mỹ một cổ phiếu theo thỏa thuận trong thỏa thuận. Lợi nhuận của của C là 3$.
  • (2) Giá thị trường của HĐ vàng giảm xuống còn 9 đô la Mỹ và nhà đầu tư C thực hiện quyền của mình: C mua HĐ vàng trên thị trường với giá 9USD/HĐ, sau đó bán cho D với giá 10 USD/HĐ theo quy định tại thỏa thuận của HĐ vàng trong trường hợp này C hòa vốn.
  • (3) Giá thị trường của HĐ vàng vẫn là 10 USD, nhà đầu tư C từ bỏ quyền của mình và mất 1 USD
  • (4) Giá thị trường của HĐ vàng tăng lên 13USD, nhà đầu tư C từ bỏ quyền của mình và mất 1USD.

Dựa vào hai ví dụ trên, chúng tôi đã cung cấp một số khái niệm cơ bản của quyền chọn và các khái niệm liên quan đến quyền chọn.

1. Người mua quyền chọn và người bán quyền chọn

Người mua quyền chọn là người trả một khoản phí (phí quyền chọn) để có được các quyền mà hợp đồng quyền chọn mang lại. Quyền này cho phép họ tại một thời điểm cụ thể được quy định trong hợp đồng quyền chọn, có thể mua hoặc bán một số lượng nhất định của một loại hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai nhất định với mức giá (giá thực hiện) từ người bán quyền chọn. Trong thời gian quy định trong hợp đồng quyền chọn (tức là thời hạn hiệu lực của quyền chọn) hoặc ngày thực hiện thannh toán cụ thể được quy định trong hợp đồng quyền chọn, người mua quyền chọn có thể thực hiện quyền của mình hoặc từ bỏ quyền, nhưng người mua cho dù thực hiện hoặc từ bỏ quyền của mình thì phí quyền chọn mà người đó đã trả cho người bán quyền chọn sẽ không được hoàn lại. A và C trong hai trường hợp trên đều là người mua quyền chọn.

Người bán quyền chọn là người sau khi nhận được phí quyền chọn do người mua quyền chọn trả sẽ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng quyền chọn vào thời gian quy định. Người bán quyền chọn phải thực hiện vô điều kiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng quyền chọn nếu người mua quyền chọn yêu cầu thực hiện các quyền của mình trong thời hạn quy định trong hợp đồng quyền chọn hoặc vào ngày thanh toán cụ thể được quy định trong hợp đồng quyền chọn.

Sau khi thu được một khoản phí quyền chọn nhất định từ người mua quyền chọn, người bán quyền chọn chỉ có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng quyền chọn chứ không có quyền lựa chọn. B và D trong hai trường hợp trên đều là người bán quyền chọn.

2. Quyền chọn mua và quyền chọn bản

Quyền chọn mua(Call Options) có nghĩa là chủ hợp đồng có quyền mua một loại hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai nhất định với số lượng và giá đã quy định trong hợp đồng, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Người mua quyền chọn mua (Call Options) vì anh ta tin rằng giá của hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai sẽ tăng và anh ta sẽ kiếm được lợi nhuận trong tương lai. Sau khi mua quyền chọn nếu giá thị trường cao hơn tổng giá thực hiện và phí quyền chọn (không tính hoa hồng), người mua quyền chọn có thể mua hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai theo giá và số lượng đã quy định trong hợp đồng, sau đó bán với giá thị trường để thu lợi nhuận; khi giá thị trường thấp hơn hoặc bằng tổng giá thực hiện cộng với phí quyền chọn (không tính hoa hồng) người mua tùy chọn sẽ mất toàn bộ phí tùy chọn và từ bỏ tùy chọn mua. Do đó, khoản lỗ tối đa đối với người mua quyền chọn chỉ là phí quyền chọn cộng với hoa hồng. [Ví dụ.1] Quyền chọn mà A và B giao dịch là quyền chọn mua.

Quyền chọn bán (Put Options) là quyền của người giữ hợp đồng để bán một loại hàng hoặc hợp đồng tương lai với số lượng và giá đã quy định trong hợp đồng, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Người mua mua quyền chọn bán (Put Options) này vì anh ta tin rằng giá thị trường sẽ giảm trong tương lai, từ đó có thể thu được lợi nhuận. Nghĩa là, khi giá thị trường giảm ( thấp hơn giá quy định trong hợp đồng ), người nắm giữ quyền chọn bán (Put Options) có thể mua hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai ở mức giá thấp hơn và sau đó bán nó với giá hợp đồng để kiếm lời. Họ cũng có thể chuyển nhượng quyền chọn bán với giá cao hơn giá mua và cũng
có thể thu được lợi nhuận đáng kể. [Ví dụ 2] Quyền chọn do C và D giao dịch là quyền chọn bán.
Cho dù đó là quyền chọn mua (Call Options) hay quyền chọn bán (Put Options), người mua quyền chọn chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ và người bán quyền chọn chỉ có nghĩa vụ chứ không có quyền. Điều này cho thấy cái gọi là quyền chọn mua và quyền chọn bán chỉ là hợp đồng quyền chọn trao các quyền khác nhau cho người nắm giữ quyền chọn và quy định các nghĩa vụ khác nhau đối với người bán quyền chọn.

3. Giá thực hiện (Strike Price hoặc Exercise Price)

Giá thực hiện (Strike Price hoặc Exercise Price), còn được gọi là giá thỏa thuận (giá đồng thuận, giá cuối cùng,giá bắt buộc hoặc giá thực hiện quyền chọn), đề cập đến giá mua và bán của hàng hóa liên quan được áp dụng khi người mua quyền chọn thực hiện các quyền được chỉ định trước trong hợp đồng quyền chọn. Khi mức giá này được xác định, trong thời hạn hiệu lực của quyền chọn, bất kể giá của hàng hóa liên quan hoặc hợp đồng tương lai tăng hay giảm, miễn là người mua quyền chọn yêu cầu thực hiện quyền của mình thì người bán quyền chọn phải thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng quyền chọn ở mức giá này. Giá thực hiện của HĐ vàng trong [Ví dụ 1] là 10 USD một HĐ và giá thực hiện của HĐ vàng trong [Ví dụ 2] là 10 USD/HĐ

4. Phí quyền chọn (Premium)

Phí quyền chọn (Premium) hay còn gọi là giá quyền chọn, tiền đặt cọc hoặc phí bảo hiểm là giá của hợp đồng quyền chọn và là giá (phí) mà người mua quyền chọn phải trả khi mua quyền của một loại quyền chọn nhất định. Khi phí bảo hiểm quyền chọn đã được thanh toán, số tiền này sẽ không được hoàn lại bất kể người mua quyền chọn có thực hiện quyền của mình hay không. Phí quyền chọn là biến số duy nhất trong hợp đồng quyền chọn, được hình thành thông qua việc đấu giá công khai giữa người mua và người bán trên thị trường quyền chọn. Đó là khoản phí mà người mua quyền chọn phải trả cho người bán để có được các quyền do quyền chọn đó trao.

Đối với người mua quyền chọn, phí quyền chọn là mức tối đa mà họ có thể mất. Với người bán quyền chọn, việc bán quyền chọn sẽ mang lại thu nhập từ phí tùy chọn mà không cần phải giao dịch ngay lập tức. Trong ví dụ 5.1 và ví dụ 5.2, phí tùy chọn đều là 1 USD.

5. Tài sản cơ sở (Underlying Assets)

Tài sản cơ sở (Underlying Assets) là một loại hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai nhất định được quy định trong hợp đồng quyền chọn, được sử dụng để mua hoặc bán khi hợp đồng quyền chọn đáo hạn. Mỗi hợp đồng quyền chọn có một tài sản cơ sở tương ứng, có thể là bất kỳ hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai nào, chẳng hạn như cổ phiếu phổ thông, chỉ số cổ phiếu, hợp đồng tương lai, trái phiếu, hoặc ngoại hối.. v.v. Thông thường, các quyền chọn có tài sản cơ sở là cổ phiếu được gọi là “quyền chọn cổ phiếu”.

Tương tự, có quyền chọn chỉ số chứng khoán, quyền chọn ngoại hối, quyền chọn lãi suất, quyền chọn tương lai, v.v. Chúng thường được niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán, sàn giao dịch quyền chọn và hợp đồng tương lai và cũng có thể là giao dịch ngoài sàn. Trong ví dụ 1 và trong ví dụ 5.2, HĐ Vàng là tài sản sở và cả hai đều được giao dịch ngoài sàn.

6. Ngày đáo hạn hợp đồng (Expiration date hoặc Expiry date)

Ngày đáo hạn hợp đồng còn được gọi là ngày hết hạn (Expiration date hoặc Expiry date). Mỗi hợp đồng quyền chọn đều có một khoảng thời gian thực hiện quyền được xác định. Nếu vượt quá khoảng thời gian này, hợp đồng quyền chọn sẽ trở nên vô hiệu. Thời hạn hiệu lực của các hợp đồng quyền chọn cùng loại là khác nhau và có thể chia thành các khoảng thời gian khác như tuần, quý, năm hoặc các thời điểm liên tục trong tháng. Ngày 20 tháng 6 trong [Ví dụ.1] và ngày 20 tháng 7 trong [Ví dụ 2] đều là ngày đáo hạn của hợp đồng quyền chọn.

II. Các loại quyền chọn

1. Quyền chọn mua, quyền chọn bán và quyền chọn hai chiều

Theo quyền của người mua quyền chọn, nó có thể được chia thành quyền chọn mua, quyền chọn bán và quyền chọn hai chiều. Như đã đề cập ở trên, người mua quyền chọn mua có quyền mua tài sản tương ứng vào một thời điểm nhất định với một giá cả đã được xác định trước; người mua quyền chọn bán có quyền bán một tài sản tương ứng vào một thời điểm nhất định với một giá cả đã được xác định trước.

Quyền chọn kép (Double Options) đề cập đến việc người mua quyền chọn cùng một lúc mua cả quyền chọn bán (Put Options) và quyền chọn mua (Call Options) của cùng một loại hàng hóa hoặc hợp đồng tương lai, tức là mua cả quyền chọn mua và quyền chọn bán với cùng một giá cả đã được quy định trong hợp đồng, do đó được gọi là “quyền chọn hai chiều”. Khi dự đoán rằng giá của một loại hàng hoặc hợp đồng tương lai sẽ có biến động lớn và hướng biến động không chắc chắn, người mua sẽ mua quyền chọn hai chiều. Dù giá thị trường tăng cao hay giảm sâu, việc thực hiện quyền lợi đều sẽ mang lại lợi nhuận, tuy nhiên phí của quyền chọn hai chiều sẽ cao hơn.

2. Quyền chọn Mỹ, quyền chọn Châu Âu và quyền chọn Bermuda

Phân loại theo thời điểm thực hiện quyền chọn, chúng có thể được chia thành quyền chọn Mỹ, quyền chọn châu Âu và quyền chọn Bermuda.

Quyền chọn kiểu Mỹ (American Options) là loại quyền chọn mà người mua có thể thực hiện quyền vào bất kỳ ngày làm việc nào trước ngày đáo hạn của quyền chọn.

Quyền chọn kiểu Châu Âu (European Options) là quyền chọn mà người mua chỉ có thể thực hiện quyền vào ngày đáo hạn của quyền chọn, không thể thực hiện trước cũng như sau ngày đáo hạn. Ở đây, các thuật ngữ “châu Âu” và “Mỹ” không liên quan đến địa lý, chúng chỉ là cách gọi thông thường để phân biệt thời điểm thực hiện quyền của người mua quyền chọn. Hiện nay, trên các thị trường quyền chọn chính trên toàn cầu, khối lượng giao dịch của quyền chọn Mỹ nhiều hơn nhiều so với quyền chọn châu Âu.

Quyền chọn Bermuda(Bermuda Options) là loại quyền chọn mà người mua có thể thực hiện quyền tại một số ngày được xác định trước đó trước ngày đáo hạn. Quyền chọn Bermuda có một số ngày hết hạn cố định mà chúng có thể được thực hiện trong khi các ngày khác thì không thể thực hiện. Ví dụ: quyền chọn có thể có thời gian hết hạn là 3 năm nhưng chỉ có thể được thực hiện vào tháng cuối cùng của mỗi năm trong 3 năm. Ứng dụng của nó thường liên quan đến thị trường thu nhập cố định. Quyền chọn Bermuda có thể được coi là sự kết hợp giữa quyền chọn Mỹ và quyền chọn châu Âu.

3. Quyền chọn có giá trị, quyền chọn không giá trị và quyền chọn giá trị

Có 3 trường hợp khác nhau phụ thuộc vào mối quan hệ giữa giá thực hiện và giá thị trường.

Quyền chọn có giá trị (In the Money Options) là những quyền chọn có giá trị nội tại dương, còn được gọi là “quyền chọn đang có tiền”.

Quyền chọn không có giá trị (Out of the Money Options) là những quyền chọn có giá trị nội tại âm, còn được gọi là “quyền chọn đang mất tiền “.

Quyền chọn giá trị (At the Money Options) là những tùy chọn có giá trị nội tại bằng không còn được gọi là “quyền chọn đang bằng tiền”.

Do đó, đối với quyền chọn mua(call option), nếu giá thị trường cao hơn giá thực hiện thì đó quyền chọn có giá trị, và giá thị trường thấp hơn giá thực hiện là quyền chọn không có giá trị;

Đối với quyền chọn bán (put option), giá thị trường thấp hơn giá thực hiện là quyền chọn có giá trị, và giá thị trường cao hơn giá thực hiện là quyền chọn không có giá trị.

Nếu giá thị trường bằng giá thực hiện, thì cả quyền chọn mua và quyền chọn bán đều là tùy chọn giá trị.

Trong những trường hợp thông thường, người mua quyền chọn sẽ chỉ yêu cầu thực hiện quyền chọn khi quyền chọn đó đang có giá trị. Khi quyền chọn không có giá trị hoặc đúng giá, người mua quyền chọn sẽ tự nguyện từ bỏ quyền của quyền chọn. Tuy nhiên, trước khi hợp đồng quyền chọn hết hạn, đặc biệt khi vẫn còn một khoảng thời gian dài trước ngày đáo hạn, ngay cả khi quyền chọn đang ở mức giá tốt hoặc thậm chí là không có giá trị thì phí quyền chọn của nó vẫn sẽ lớn hơn không.

Điều đó có nghĩa là, trước khi hợp đồng quyền chọn hết hạn, người mua quyền chọn phải trả một khoản phí quyền chọn nhất định cho người bán quyền chọn ngay cả khi anh ta mua một quyền chọn ngang giá hoặc một quyền chọn không có giá trị. Điều này là do phí quyền chọn được tạo thành từ hai thành phần: giá trị nội tại và giá trị thời gian.

4. Quyền chọn giao ngay, quyền chọn tương lai và quyền chọn kết hợp(kép)

Theo tính chất của tài sản cơ sở của quyền chọn, chúng có thể được chia thành các quyền chọn giao ngay, quyền chọn tương lai và quyền chọn kết hợp.

Quyền chọn giao ngay (Quyền chọn vật lý-Physical Options) đề cập đến các quyền chọn sử dụng nhiều loại hàng hóa hoặc công cụ tài chính khác nhau làm đối tượng của hợp đồng quyền chọn, chẳng hạn như quyền chọn ngô, quyền chọn bông, quyền chọn đậu tương, quyền chọn cổ phiếu, quyền chọn chỉ số giá cổ phiếu, quyền chọn ngoại hối và trái phiếu. tùy chọn, vv.

Quyền chọn tương lai (Futures Options) đề cập đến các quyền chọn sử dụng các hợp đồng tương lai khác nhau làm đối tượng của hợp đồng quyền chọn, chẳng hạn như quyền chọn tương lai hàng hóa khác nhau, quyền chọn tương lai ngoại hối, quyền chọn tương lai lãi suất, quyền chọn tương lai chỉ số giá cổ phiếu, v.v. Quyền chọn giao ngay và quyền chọn tương lai là những thành phần chính của giao dịch quyền chọn.

Quyền chọn tổng hợp đề cập đến các giao dịch quyền chọn trong đó bản thân hợp đồng quyền chọn là đối tượng của quyền chọn, còn được gọi là “quyền chọn của quyền chọn”. Nó cho phép người mua mua hoặc bán các quyền chọn ở một mức giá cố định trong một khoảng thời gian xác định trước. Các quyền chọn như vậy thường dựa trên các công cụ lãi suất hoặc ngoại hối và các nhà đầu tư thường mua các quyền chọn kết hợp trong thời kỳ biến động cao hơn để giảm tổn thất do biến động trong phí quyền chọn tiêu chuẩn mang lại.

5. Quyền chọn hàng hóa và quyền chọn tài chính

Theo đặc điểm vật lý của tài sản cơ sở của quyền chọn, nó có thể được chia thành quyền chọn hàng hóa và quyền chọn tài chính. Quyền chọn hàng hóa (Commodity Options) là quyền chọn mà tài sản cơ sở là vật thể thực, chẳng hạn như lúa mì và đậu nành trong nông sản, đồng trong kim loại, v.v. Quyền chọn hàng hóa là một công cụ tài chính tốt để phòng ngừa và quản lý rủi ro hàng hóa.

Quyền chọn tài chính (Financial Option) đề cập đến các quyền chọn mà tài sản cơ sở là các sản phẩm tài chính hoặc các hợp đồng tương lai tài chính. Sau khi trả một khoản phí nhất định cho người bán, người mua có quyền mua hoặc bán một số lượng cố định các sản phẩm tài chính hoặc hợp đồng tương lai tài chính với giá cố định trong một khoảng thời gian nhất định.

6. Quyền chọn trong sàn và quyền chọn ngoài sàn (OTC)

Quyền chọn được chia thành hai loại tùy theo tính tập trung của nơi giao dịch và tính chuẩn hóa của hợp đồng quyền chọn, đó là quyền chọn trong sàn (Exchange-Traded Options) và quyền chọn ngoài sàn (Over-the-Counter Options).

Quyền chọn trong sàn được giao dịch trên các thị trường tập trung như thị trường hợp đồng tương lai hoặc thị trường quyền chọn và là các hợp đồng quyền chọn được chuẩn hóa. Quyền chọn ngoài sàn là các giao dịch không chuẩn hóa được thực hiện tại các nơi giao dịch phi tập trung.

Điểm khác biệt chính giữa quyền chọn trong sàn và quyền chọn ngoài sàn là tính chuẩn hóa của hợp đồng quyền chọn. Quyền chọn trong sàn là các hợp đồng chuẩn hóa, với số lượng giao dịch, giá thực hiện, ngày đáo hạn và thời gian thực hiện được quy định theo quy định chung của sàn giao dịch; trong khi đó, quyền chọn ngoài sàn là các hợp đồng không chuẩn hóa, với số lượng giao dịch, giá thực hiện, ngày đáo hạn và thời gian thực hiện được thỏa thuận tự do giữa hai bên giao dịch.

Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ nói đến Các chữ cái Hy Lạp ( Delta, Gamma, Theta, Vega, Rho) trong giao dịch quyền chọn

Xem thêm

spot_img

Theo dõi trên Telegram

Tham gia nhóm telegram để trao đổi, theo dõi các bài viết nhanh nhất và các tín hiệu giao dịch từ XM TEAM Research.

Cùng tác giả

Tăng trưởng vững chắc của GDP Mỹ không hỗ trợ việc cắt giảm lãi suất sớm

GDP thực tế của Hoa Kỳ trong quý 2 năm 2024 là 2,8% tính theo tỷ lệ hàng năm, vượt qua dự báo thị trường là 2.0%, và cũng tăng rõ rệt so với 1.4% của quý I. Xét...

Xu hướng đối đầu địa chính trị trên toàn cầu gia tăng

Kể từ tháng 6, nhịp độ cạnh tranh địa chính trị toàn cầu đã tăng lên rõ rệt. Nếu xu hướng này tiếp tục duy trì, khả năng thế giới phải đối mặt với những biến động lớn sẽ...

Tín hiệu từ dữ liệu CPI Hoa Kỳ tháng 6: Lạm phát ở Mỹ chậm lại hỗ trợ việc cắt giảm lãi suất của...

Chỉ số CPI của Mỹ trong tháng 6 tăng 3.0% so với cùng kỳ năm trước (giá trị trước là 3.3%), và chỉ số CPI cốt lõi tăng 3.3% so với cùng kỳ năm trước (giá trị trước là...

Tận hưởng các chức năng độc quyền dành cho thành viên của chúng tôi

Nhận đăng ký trực tuyến và bạn có thể mở khóa bất kỳ bài viết độc quyền nào.